Trong hàng Ngũ Vị Tôn Ông, cùng với Quan Lớn Đệ Tam, Quan Đệ Ngũ cũng là một vị quan lớn danh tiếng hết sức lẫy lừng, được nhân dân xa gần tôn kính phụng thờ. Tuy trong hàng Năm Toà Ông Lớn, ông được thỉnh cuối cùng nhưng lại hay ngự về đồng nhất (bất cứ ai hầu Tứ Phủ, bất cứ dịp tiệc, đàn lễ nào đều phải thỉnh Quan Tuần Tranh về ngự). Khi ngự đồng ông mặc áo lam thêu rồng, hổ phù, làm lễ tấu hương, khai quang, chứng sớ tán đàn rồi múa thanh long đao. Khi có đại đàn mở phủ hay bất cứ lễ tiệc nào, sau khi thỉnh các quan lớn về, đều phải đợi đến khi giá Quan Đệ Ngũ về chứng một lần hết tất cả các đàn mã sớ trạng rồi mới được đem đi hoá.

>>> Xem thêm Quan Lớn Đệ Ngũ Tuần Tranh

Bản văn Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh

Đệ tử con khấu đầu cung thủ
Tiến văn chầu đệ ngũ tuần tranh,
Uy gia lẫm liệt tung hoành
Trừ tà sát quỷ lên danh tướng tài.

Việt sử chép Hùng triều thập bát
Cảnh địa linh Bạch Hạc Phong Châu,
Dựng nền xã tắc dài lâu
Nhớ ơn tiên tổ đời sau giữ gìn.

Vừa gặp hội bể yên sóng lặng
Triệu bách thần gia tặng phong công,
Quan Tuần Tranh lẫm liệt oai hùng
Cứu dân hộ quốc nên công hàng đầu.

Giảo Long hầu khâm ban sắc tứ
Trấn Ninh Giang thuỷ bộ chư danh,
Bao phen đắp luỹ xây thành
Khắp miền duyên hải sông Tranh nức lòng.

Sông Tranh ơi hỡi sông Tranh
Non nước còn ghi trận tung hoành,
Lẫm liệt oai hùng gương tráng sĩ
Ngàn thu ghi nhớ dấu oai linh.
Ai về qua bến sông Tranh
Nhớ người tráng sĩ tài danh tuyệt vời.
Dẫu rằng nước chảy hoa trôi
Sông Tranh dù cạn, ơn người còn ghi.
Loa đồng hỏi nước sông Tranh,
Long đao cứu nước, anh hùng là ai?
Sông Tranh đáp tiếng trả lời,
Có Quan đệ ngũ, chính người Ninh Giang.

Tài cung kiếm sánh cùng võ tử
Đức kinh luân ví tựa Trương Tô
Phong lưu mã thượng giang hồ
Cung cầm dưới nguyệt con đò trên sông.

Chí đã quyết ngoài vòng cương toả
Hay đâu là duyên nợ ba sinh,
Buồng xuân thiếu bạn chung tình
Thoả lòng tráng sĩ tài anh phỉ nguyền.

Thề non nước nên duyên kì ngộ
Bỗng đâu ngờ mắc nợ oan khiên,
Tin đâu khẩn cấp ban truyền
Quan quân tầm nã khắp miền sông tranh.

Có ngờ đâu đất trời thay đổi
Người anh hùng cổ nặng xiềng gông,
Ngài bị bắt giam ở chốn Kỳ Cùng
Quan oan vì tuyết nguyệt, bởi lòng ái ân.

Trước cung điện, triều đình tra xét,
Bắt long hầu chuyển khắp mọi nơi.
Ngài oan vì ong bướm lả lơi,
Chiết hoa, đoạt phụ tội trời không dung.

Lệnh viễn xứ sơn cùng, thuỷ kiệt,
Nỗi oan này thấu tỏ hỡi cao minh.
Hoàng bào đã nhuôm chàm xanh
Tấm thân đành nhục vinh lẽ thường.

Đường thiên lý quan san bỡ ngỡ
Hỏi trăng già có tỏ cho ai,
Hỏi trăng hỏi gió hỏi trời
Hỏi rằng nguyệt lão trêu người vì đâu.

Hỏi cây cỏ sao mưa dầu nắng dãi,
Vẫn vươn mình há ngại phong ba.
Cỏ cây ơi có thấu tỏ lòng ta,
Sơn cùng thuỷ kiệt sương sa lạnh lùng.

Thà thác vinh còn hơn sống nhục,
Sông Kỳ Cùng tắm ngọc Côn Sơn
Kiệt cùng hiu hắt trăng non
SôngCùng trong đục nước tuôn đôi dòng

Ngẫm cảnh vật lòng đau như cắt
Nợ trần hoàn quyết dứt cho xong,
Lòng riêng đã quyết với lòng
Mượn dây oan nghiệt cho xong tội trời..

Rừng hoa cỏ thương người đã khuất
Bỗng đùng đùng gió giật mưa sa,
Nỗi oan chuyển động đất trời
Dây oan kia biến thành đôi bạch xà.

Đất Ninh Giang tìm nhà có phúc
Thử lòng người trong lúc lánh thân,
Tháng hai vừa tiết trung tuần
Thử lòng ông lão mộng thần ứng ngay.

Tỉnh giấc mộng mới hay sự lạ
Đôi bạch xà tựa cửa hai bên
Long xà kì dị thảo hiền
Từ khi xuất hiện vui thêm cửa nhà.

Ba tháng sau đàn gà đã hết
Thương rắn hiền không biết lo sao
Khó Khăn âu cũng tính liều
Ông bà nông lão sớm chiều đông tây.

Bỗng một buổi tai bay hoạ rủi
Hai ông bà mắc tội cửa công
Lệnh nghiêm sấm sét đùng đùng
Tậu gà nuôi rắn không dung tội này.

Lệ nuốt lệ đắng cay xiết kể
Thương rắn thần tựa thể thương con
Khấu đầu tạ trước công môn
Xin đem đôi rắn thả luôn giữa dòng.

Cơn phong vũ ầm ầm nổi dậy
Sóng bạc đầu nước xoáy mênh mông
Long xà thoát xuống thuỷ cung
Nước rẽ đôi dòng cuồn cuộn chứa chan.

Khắp duyên hải sấm ran từ đấy
Bóng long hầu nổi dậy nơi nơi
những phường bán nước hại nòi
Gian tà quỷ quyệt tội trời không tha.

Dìm đáy nước về toà thuỷ tộc
Tội gia hình bõ lúc sai ngoa
Lẽ thường tội báo oan gia
Hại nhân nhân hại sự đà không sai.

Nước Văn Lang vào đời Thục Phán,
Giặc Triệu Đà có ý xâm lăng,
Triều đình ra lệnh tiến binh,
Thuyền bè qua bên sông Tranh rợp trời.

Bỗng nổi trận phong lôi bão táp
Ba quân đều sợ hãi khiếp kinh
Hỏi ra mới biết sự tình
Thiết bày hương án lễ trình bên sông.

Mời trưởng lão trong vùng thôn xóm
Khấn vừa xong gió lặng sóng yên
Uy linh sự đã hiển nhiên
Lệnh truyền dân xã lập đèn bên sông.

Công hộ quốc gia phong thượng đẳng,
Tước phong hầu truy tặng Đại vương,
Bảng vàng thánh thọ vô cương
Hiếu trung tiết nghĩa đôi đường vẹn hai.

Gương anh hùng muôn đời soi tỏ,
Đất Văn Lang thiên cổ anh linh,
Bao phen đắp luỹ xây thành,
Khắp miền duyên hải, sông Tranh nức lòng.

5/5 - (1 bình chọn)