Chầu Bà Đệ Tam rất ít khi giáng đồng (người ta thường kiêng hầu chầu đặc biệt là trong các dịp tiệc mừng vui hoặc lễ Thượng Nguyên hoặc đại đàn mở phủ). Nếu trong đàn mở phủ mà dâng bốn tòa sơn trang thì người ta cũng không hay thỉnh chầu về chứng mà thường thỉnh Chúa Thác Bờ hoặc Chầu Bé Thoải Bản Đền thay cho giá chầu để chứng tòa màu trắng. Chầu chỉ ngự về khi người hầu bắc ghế hầu Tứ Phủ ở các ngôi đền thờ các vị thánh hàng Thoải hoặc tại chính đền thờ Mẫu Thoải. Chầu ngự về thường mặc áo màu trắng, cầm quạt khai cuông.
>>> xem thêm: Chầu Bà Đệ Tam Thủy Cung
Bản văn Chầu Bà Đệ Tam Thoải Phủ
Anh linh lừng lẫy chốn giang khê
Nức tiếng con vua dưới thuỷ tề
Ngán nỗi Kính Xuyên rời chỉ thắm
May nhờ Liễu Nghị chắp dây xe
Rập rìu tin nhạn thư vừa tới
Thấm thoát xe loan phút đã về
Hiển hách xưa nay ai dễ tỏ
Có chăng gửi một bức thư đề.
Miễu
Trạnh giang biên doành ngân lai láng
Nguyệt lầu lầu soi rạng Nam Minh
Con vua thuỷ quốc Động Đình
Có tiên thần nữ giáng sinh đền rồng
Đức gồm vẹn công dung ngôn hạnh
Nết nhu mì bẩm tính thiên nhiên
Dung nghi cốt cách thần tiên
Vàng trong nước lệ ngọc miền non côn
Hằng chầu chực kim môn ngọc điện
Duyên sắt cầm chưa định nơi nao
Chúa từ gìn giữ thanh tao
Gió đằng vương các khư tao dưới màn
Chốn thuỷ cung có nhà lệnh tộc
Vốn con dòng danh ốc Kính Xuyên
Xưa nay thế phiệt gia truyền
Thảo Mai nàng ấy tạm quyền tiểu tinh
Chí bình sinh phù đời giúp nước
Ân cửu trùng phó thác biên cương
Giá danh công chúa phi phương
May nhờ lá thắm xe duyên tơ hồng
Trên vương phụ có lòng lân mẫn.
Thổng
Cho hai người duyên phận sánh nhau
Chúa từ kết nghĩa trần châu
Đã đành chỉ thắm giành sâu khôn nài
Ước trăm năm duyên hài phối thất
Đạo cương thường nhiệm nhặt tóc tơ
Cùng nhau chưa mấy nắng mưa
Ngờ đâu duyên phận thiên cơ bởi trời
Trách Thảo Mai ra lòng giáo giở
Trá đồ thư làm cớ gieo oan
Kinh Xuyên chẳng xét ngay gian
Nỡ đem đầy chốn lâm sơn sao đành
Đỉnh non xanh một mình vò võ
Sơm khuya cùng núi cỏ ngàn cây
Đèn trăng chiếu đá màn mây
Dưỡng thân hoa quả bạn bày trúc mai
Thường vãng lai thanh sơn tú thuỷ
Lột đại xá tựa thể ngư long
Có phen biến tướng lạ lùng
Mày ngài yểu điệu má hồng phi phương
Có phen nhớ gia hương rười rượi
Mặt rầu rầu dạ rối châu xa
Có phen tưởng khách Hằng Nga.
Bình
Tưởng bề phu phụ xót xa muôn phần
Có phen trách lang quân bội bạc
Cả nghe mà trách móc duyên ai
Có phen lão ủ đào phai
Phận đành chắp chi xe gai việc thường
Có phen trai dầu sương dãi nguyệt
Ba thu tròn mong quyết thu không
Có phen nhìn áng non sông
Âu sầu đến nỗi hình dung võ vàng
Tứ bề những hổ lang ác thú
Vật đều cùng mến chúa hôm mai
Đua nhau trăm giống nghìn loài
Dâng hoa cúng quả chẳng nài công phu
Trải mười thu dãi dầu sương nắng
Tin cá trầm nhạn vắng khôn hay
Chúa buồn vì nỗi riêng tây
Hay đâu con tạo vần xoay bởi trời
Trên dương thế có người nho sĩ.
Phú chênh
Văn tú tài Liễu Nghị là tên
Trẻ thơ nhờ ấm thung nguyên
Sôi kinh nấu sử hằng chuyên việc mình
Vừa gặp hội lai kinh ứng thí
Dặm đường trường Liễu Nghị trẩy ra
Vũ môn mong nhẩy đợt ba
Hiềm đâu con tạo xoay ra bởi trời
Đi tới trốn đầu nơi hiu quạnh
Bóng ác tà sương lạnh đầu hôm
Đầy ngàn hoa quả xanh um
Trước hàng liễu ủ sau chùm đào phai
Lòng quân tử đeo đai cảnh vật
Thấy chúa ngồi tư chất dung nhan
Má đào châu lệ chứa chan.
Phú giầu
Nỉ non tấm tức khóc than một mình
Chàng trông thấy tâm tình cảm kích
Chúa ngập ngừng hỏi khách rằng hay
Sơn lâm rừng vắng chốn này
Cớ sao quân tử tới đây lạc loài
Bây giờ trăng soi ác lặn
Chàng hãy còn thơ thẩn cớ sao
Thưa rằng hàn sĩ trí cao
Mười năm đèn sách công lao chuyên cần
Hội Long Vân hiềm chưa gặp gỡ
Duyên sự này cơn cớ bởi đâu
Dám xin kết nghĩa trần châu
Kẻo còn thục nữ đeo sầu dưới trăng
Chúa nghe nói rùng rằng khôn siết
Mới nhủ chàng cả quyết sao nên
Tôi nay người dưới thuỷ tiên
Nghiêm đường trước đã định duyên giai kỳ
Khăng khăng giữ đạo tuỳ sau trước
Chẳng ngờ chàng tính nước lòng mây
Bông không gắp lửa bỏ tay
Gieo oan thất tiên đem đầy mười đông
Phiền quân tử tin thông nhạn cá.
Nói lối
Duyên sự này thiếp há đơn sai
Chẳng rằng hẳn được như lời
Sá chi bể rộng sông dài quản đâu
Nhờ bóng nguyệt đêm thâu giãi tỏ
Giãi tấc lòng nhờ có cao xanh
Hàn Sơn nghe vẳng chuông kình
Kim ô bóng đã xế hình bãi dâu
Chúa hiềm nỗi bấy lâu oan ức
Phó cho chàng một bức thư phong.
Thủ vân
Nữ tiên thủ bút
Bái tạ Long cung
Lạy vua cha chính ngự ngai rồng
Tường sự tích chung tình trúc chiếu
Phận con niên thiếu
Nữ tắc nữ công
Tự Kính Xuyên sớm kết chỉ hồng
Duyên cá nước sắt cầm hoà hợp
Vì nàng tiểu thiếp
Tên gọi Thảo Mai
Bỗng vì đâu đặt để nên nhời
Phút chốc khiến bắc nam đôi ngả
Hư không làm có
Gắp lửa bỏ tay
Trách chàng chẳng xét gian ngay
Nỡ bắt thiếp đem đầy viễn thú
Hôm mai vò võ
Tủi ngậm ngùi than
Tấm lòng son bối rối gan vàng
Đâu dạ sắt ngẩn ngơ mặt ngọc
Tưởng duyên tơ tóc
Tủi phận má hồng
Khi vui thời bạn trúc thông
Khi buồn lại than cùng hoa cỏ
Thiên duyên kỳ ngộ
Sẽ gặp tình quân
Gửi bức thư về mái hải tần
Trình khắp hết lưỡng ban thần tử
Nỗi niềm tâm sự
Mượn bút thay lời
Gửi chàng đi đến mai Long giai
Để thiếp được gần chầu thánh đế
Sơn minh hải thệ
Tạc dạ ghi lòng
Ví dù ai phụ nghĩa quên công
Xin xoi xét đôi vầng nhật nguyệt.
Vãn
Dặn chàng ra mái bể Đông
Tới đâu hễ thấy ngô đồng cây cao
Lấy kim thoa gõ vào cây ấy
Dưới thuỷ tề nghe thấy không lâu
Tuỳ cơ ứng biến nhuộn mầu
Mặc lòng nhời ngỏ , mặc dầu thơ trao
Chàng nghe nói tiêu hao sau trước
Dạ bùi ngùi chân bước đường thông
Bể đào lai láng xa trông
Nửa lo nỗi chứa nửa lòng sự duyên
Sông Ngân hán băng miền thẳng trỏ.
Kiều dương
Tới ngô đồng tay gõ vừa thôi
Tự nhiên nổi trận phong lôi
Giữa giòng bỗng thấy một đôi bạch xà
Chàng trông thấy sự đà ứng hiện
Mấy bầy nhời chúc kiến phân minh
Bạch xà thoát xuống động đình
Sai lên rẽ nước dòng xanh rước chàng
Rước chàng xuống đền vàng Thuỷ Phủ
Thấy quần thần văn vũ đôi bên
Tiêu thiều nhã nhạc dưới trên
Tả bầy ngư miếc hữu chen long xà
Kim quy sứ tâu toà ngọc bệ
Bước ra mời Liễu Nghị vào trong
Chàng quỳ dâng bức thư phong
Phụ vương trông thấy trong lòng quặn đau
Trách Kính Xuyên cơ cầu độc giữ
Mấy truyền đòi trưởng từ Xích Lân
Phán rằng em phải gian truân
Con nên rước xuống về sân chớ chầy
Nhời vương phụ phán ngay vừa kíp
Xích Lân bèn hoá phép thần thông
Bể đào lai láng mênh mông
Khắp hoà thế giới đều cùng mênh mang
Sấm chớp vang mưa tuôn bão giật.
Cờn
Quỷ cùng ta thán khắp mọi nơi
Chúa tiên về tới long giai
Kính Xuyên phải tội Thảo Mai đi đày
Công cán này ai tày Liễu Nghị
Phong cho làm quốc tế thuỷ quan
Chàng từ vâng lệch thiên nhan
Duyên ưa phận đẹp chức ban trọng dùng
Mái tiên cung an bài tự trước
Kẻ phàm trần bỗng gặp sánh tiên
Chàng từ Kim cải bén duyên
Có danh trí tuệ có quyền anh linh
Dù ai phải bất bình mỏi mệt
Tấm lòng thành khấn vái lại tha
Dù ai tiến cúng nhang hoa
Tiền tài lưu loát cửa nhà bình yên
Đã nên đấng anh linh kỳ diệu
Khắp trong triều nhường vị kính ngôi.
Ồn đại thạch
Dám xin những sự đã rồi
Xin đừng nghĩ đến dông dài làm chi
Kìa Vũ thị hảo tuỳ một tiết
Chàng Trương sinh chẳng biết ngay gian
Bóng đèn nghe trẻ nói oan
Làm cho thiếu nữ hồng nhan liều mình
Đã nên đấng anh linh liệt nữ
Trách chi người vụng xử chấp nê
Bằng nay tiên chúa sinh chi
Giá đem sau trước mà suy sự lòng
Rũ sạch không những niềm tân khổ
Nương uy trời tế độ sinh linh
Đời đời nức tiếng thơm danh
Biển vàng ghi tạc sử xanh dõi truyền
Kiêm ngũ phúc dâng lên cõi thọ
Nước trị trường thánh chúa hưng long
Mẫu về chắc giáng điện trung
Khuông phù đệ tử hưng long thọ trường.
Đối với cư dân nông nghiệp lúa nước, Chầu Bà Đệ Tam Thoải Phủ (Mẫu Thoải) là vị thần vô cùng quan trọng. Mỗi khi có hạn hán, lũ lụt, Mẫu ra tay cứu giúp, để đảm bảo mùa màng bội thu. Không chỉ vậy, Mẫu còn cứu vớt các vong linh trôi nổi trên các ao hồ, sông nước. Ngoài ra, bà còn dạy dân đóng thuyền bè, đan lưới bắt cá… Bởi vậy, bà được dân gian vô cùng sùng kính và ngưỡng mộ.